Học thuyết giá trị thặng dư hình thành những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư nhằm vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng thông qua học thuyết này mà phát triển và nhận thức rõ các quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa. . Đó là cơ sở khoa học vững chắc trong cuộc đấu tranh chống mọi bất công xã hội, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng giai cấp và xã hội.
Tư bản (theo nghĩa hẹp) là tư bản. Nói rộng ra, đó là khoản đầu tư của nhà đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ hay bất kỳ ngành nào khác. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn là một biểu hiện và là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước dựa trên sự tăng trưởng của các khoản tiết kiệm, tiết kiệm và đầu tư ở cấp độ toàn xã hội, khu vực công và khu vực tư nhân. Tư bản biểu hiện bằng tiền, tư liệu sản xuất, sức lao động, nhưng bản chất của tư bản là quan hệ xã hội, quan hệ bóc lột sức lao động làm công.
Theo kinh tế học mácxít, tư bản là giá trị sinh ra giá trị thặng dư do bóc lột công nhân làm công ăn lương, tư bản không phải là vật mà là quan hệ xã hội, phạm trù kinh tế chủ yếu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quan hệ xã hội giữa giai cấp tư sản và giai cấp tư sản. quan hệ giữa giai cấp công nhân, tư bản bóc lột công nhân làm thuê. Căn cứ vào vai trò của nó trong việc tạo ra giá trị thặng dư và lượng giá trị chuyển hóa thành giá trị hàng hóa mới, C.Mac chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản khả biến.
1. Vốn cố định là gì?
Tư bản bất biến là một khái niệm trong kinh tế chính trị học Mac-Lênin dùng để chỉ một bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất và chuyển thành sản phẩm (tư bản thực) còn nguyên giá trị, tư bản bất biến được C. Mac ký hiệu là c. ). Nói cách khác, tư bản bất biến là bộ phận của tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất và không làm thay đổi về lượng giá trị trong quá trình sản xuất. Để phân tích một cách khoa học bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, lần đầu tiên C.Mac đã chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản khả biến. Cơ sở của sự phân chia này là không phải toàn bộ tư bản mà chỉ có bộ phận tư bản dùng để trả công lao động mới là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư và làm tăng thêm tư bản. Giá trị của tư bản cố định được lao động cụ thể của công nhân chuyển hóa dần dần thành hàng hóa mới, theo mức độ hao mòn của tư liệu sản xuất trong quá trình lao động.
Vốn cố định được dịch sang tiếng Anh là Permanent capital.
2. Vốn cố định và vốn khả biến:
Các nhà kinh tế tư sản thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Trên thực tế, bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố sản xuất chính trong bất kỳ xã hội nào. Tư liệu sản xuất trở thành tư bản khi chúng trở thành tài sản của nhà tư bản và được sử dụng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chủ nghĩa tư bản bị thủ tiêu thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Như vậy, tư bản không phải là một vật, mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất, có tính chất nhất thời trong lịch sử. Thực chất của tư bản là phản ánh quan hệ sản xuất xã hội, trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra.
Khi muốn tiến hành sản xuất, các nhà tư bản phải bỏ ra tư bản (gọi là tư bản) để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất. Nhưng tư liệu sản xuất và sức lao động có vai trò khác nhau như thế nào trong tư bản sản xuất?
Tư liệu sản xuất là vốn cố định, là một hình thức vốn hiện diện trong tư bản sản xuất. Trong sản xuất, công nhân sử dụng phương tiện sản xuất để tạo ra sản phẩm. Có nhiều loại tư liệu sản xuất:
– Tư liệu sản xuất được sử dụng toàn bộ vào quá trình sản xuất, được sử dụng lâu dài nhưng chỉ hao mòn dần qua nhiều chu kỳ sản xuất nên chuyển dần một phần giá trị của chúng vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng. …
– Tư liệu sản xuất khi được đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của chúng như nguyên vật liệu, nhiên liệu vào chu trình sản xuất.
Bất kể giá trị của tư liệu sản xuất được chuyển dần vào sản phẩm hay chuyển hoàn toàn vào sản phẩm, thì đặc điểm chung của bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất là giá trị của nó được bảo toàn không thay đổi. về số lượng và chuyển vào sản phẩm. sản phẩm mới trong quá trình sản xuất nên nó được gọi là vốn cố định, đây cũng là điểm khác biệt chủ yếu và lớn nhất của vốn cố định so với vốn khả biến.
Từ khái niệm, có thể phân tích một số đặc điểm của vốn cố định như sau:
Thứ nhất, tư bản cố định là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất và không làm thay đổi về lượng giá trị trong quá trình sản xuất.
Thứ hai, tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư, nó là điều kiện cần thiết để quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra. Nguồn tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động của người lao động.
Thứ ba, mỗi bộ phận của tư bản bất biến chuyển giá trị của nó sang hàng hóa mới được sản xuất một cách khác nhau. Do có tính chất tuần hoàn nên bộ phận cố định của tư bản (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) cấu thành nên tư bản cố định, được sử dụng trong nhiều thời kỳ sản xuất và có giá trị thay đổi dần dần. Một bộ phận tư bản thường xuyên khác (nguyên nhiên vật liệu, vật liệu phụ), là một bộ phận của tư bản lưu động, được tiêu dùng hoàn toàn trong thời gian sản xuất và được chuyển hóa cho các bộ phận khác, toàn bộ giá trị của chúng được chuyển hóa vào sản phẩm. vừa sửa.
Vốn cố định là nguồn gốc của giá trị thặng dư nên việc tổ chức sử dụng hợp lý sức lao động là biện pháp chủ yếu để tạo ra giá trị thặng dư.
Vậy lao động có vai trò gì trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa? Lao động là tư bản khả biến. Tư bản khả biến là khái niệm của MacLean trong kinh tế chính trị để chỉ bộ phận của tư bản (ký hiệu là v) dùng để mua sức lao động (trả lương, thuê mướn công nhân), làm thay đổi lượng của nó trong quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm, tạo ra giá trị thặng dư được sử dụng. .
Trái ngược với tư liệu sản xuất, nơi giá trị của tư liệu sản xuất không thay đổi trong quá trình sản xuất ra sản phẩm mới, với lao động trừu tượng trong quá trình sản xuất đối với một bộ phận tư bản được dùng để mua sức lao động. công nhân. nó tạo ra giá trị mới bù đắp hoàn toàn giá trị sức lao động của công nhân, đồng thời tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Như vậy, bộ phận tư bản này được gọi là tư bản biến đổi về lượng và tư bản khả biến. Có thể thấy, tư bản khả biến có vai trò quyết định đối với quá trình sản xuất giá trị thặng dư, vì nó là bộ phận tăng thêm của tư bản.
Bộ phận của tư bản dùng để mua sức lao động, một mặt, giá trị của nó trở thành tư liệu sinh hoạt của công nhân và bị mất đi trong quá trình tiêu dùng của công nhân. Mặt khác, với lao động trừu tượng trong quá trình lao động, người lao động tạo ra một giá trị mới lớn hơn bản thân sức lao động, giá trị này bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Như vậy, bộ phận của tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng biến đổi từ lượng bất biến sang lượng khả biến, tức là nó tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất, là bộ phận bất biến của tư bản, tồn tại bên ngoài và có thể nhìn thấy bằng mắt thường, thì bộ phận khả biến của tư bản dùng để mua sức lao động lại có thể nhìn thấy được thông qua lao động trừu tượng. có sự thay đổi về lượng giá trị.
Như vậy, có thể thấy rằng, điểm khác nhau chủ yếu giữa tư bản cố định và tư bản khả biến là ở chỗ lượng giá trị của tư bản có thay đổi hay không trong quá trình sản xuất ra tư bản. Tư bản bất biến là điều kiện tất yếu để sản xuất ra giá trị thặng dư, tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó là bộ phận tăng thêm của tư bản.
Theo đó, việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản khả biến là căn cứ vào vai trò của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, nó do lao động làm thuê của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm giữ. Ngày nay, giai cấp tư sản sử dụng máy móc hiện đại tự động hoá quá trình sản xuất một số sản phẩm. Trong điều kiện sản xuất đó, tư bản bất biến có vai trò quan trọng quyết định việc tăng năng suất lao động, nhưng không thể coi nó là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. Xét cho cùng, bộ phận tư bản khả biến tồn tại cả về vật chất và tinh thần dưới hình thái sức lao động chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, tư bản bất biến hay tư bản khả biến đều là một bộ phận của tư bản sản xuất, giữ những vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất và trong quá trình chuyển hóa giá trị để tạo ra hàng hóa mới, tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Dương Gia về Vốn cố định là gì? Tư bản cố định và tư bản khả biến. Mọi thắc mắc bạn có thể liên hệ hotline để được hỗ trợ và tư vấn.