20.11.2018
bb28c046-26cd-45a5-aefb-67587357224e
An Giang là một trong hai tỉnh ĐBSCL có diện tích đồi núi tập trung nhiều nhất ở phía Tây Bắc của tỉnh, thuộc hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Là cụm núi cuối cùng của dãy Trường Sơn nên có đặc điểm địa chất tương tự vùng Nam Trường Sơn, bao gồm các thành tạo trầm tích và magma.
Các thành tạo magma:
Đá núi lửa Jura thượng lộ ra ở An Giang phía đông núi Đại, phía tây Bồ Hong núi Cấm, phía nam núi Phú Cường (Ta Péc), phía bắc đồi Sà Lôn. Thành phần chính của loại đá này bao gồm andesit và các mảnh tích tụ. Andesit có màu xám đen, xám xanh, đôi khi pha lẫn xanh lục. Đá có kết cấu dòng chảy, đôi khi có lõi chứa đầy cacbonat và thạch anh thứ sinh. Khoáng vật phụ trong đá gồm apatit và quặng phụ. Theo thành phần thạch học, hàm lượng silic trong đá (SiO2) là 57-78%, độ kiềm trung bình nhưng thường tăng dọc theo biên giới khi tiếp xúc với các đá xung quanh.
– Loại granit Jura thượng:
Trong thời kỳ kiến tạo, hoạt động mạnh mẽ của vỏ trái đất đã hình thành nên các khối núi Cô Tô và núi Cấm gồm 2 pha. Giai đoạn đầu là nhóm đá có thành phần thạch học: diorit, diorit-pyrocen. Giai đoạn 2 gồm granit màu trắng xám chứa nhiều mica và horblem, đặc biệt loại đá này chứa nhiều khoáng vật biotit màu đen, khi bị phong hóa biến thành phlogopit màu vàng bóng (mica vàng).
– Granit hồng già Créta:
Là pha xâm nhập được xếp vào phức hệ Đèo Cả có tuổi địa chất Créta. Chúng được chia thành 3 giai đoạn can thiệp khác nhau.
Trong giai đoạn 1, có một khu đất trống hẹp trải dài trên sườn phía đông núi Cấm từ khu vực Lâm Viên đến ranh giới phía bắc núi Nam Qui, tạo thành các dải rộng từ 700 m đến 800 m. Đá có màu hồng.
Đợt 2 chủ yếu đánh vào Tây Nguyên, tây bắc núi Cấm, núi Tượng và các khối núi nhỏ như Két, Trà Sư, Ba Thê, Ba Dội. Đá có màu hồng.
Pha 3 phân bố ở các khối núi nhỏ biệt lập như núi Sập, thành phần chủ yếu là granit hạt mịn có biotit.
Pha mạch đá, thường gặp ở các mạch aplit, kích thước nhỏ, chiều rộng từ vài cm đến vài mét, rải rác các mạch aplit ở núi Ba Dội, Ba Khet, đặc biệt ở núi Khẹt. mét và là nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành gạch ốp lát.
– Créta microgranit ướt: Loại đá này được xếp vào phức hệ Cà Ná, phân bố chủ yếu ở các núi biệt lập như núi Sam, núi Trà Sư, núi Nổi. Đá có màu xám nhạt, hạt nhỏ. Ở nhiều nơi, các mỏ như mỏ molybdenite tập trung ở núi Sam.
Các thành tạo trầm tích: Trên địa bàn tỉnh An Giang được chia thành các phân vị địa tầng sau:
– Trầm tích Trias – Hệ tầng Dầu Tiếng:
Từ dưới lên trên, thành phần lộ ra ở vùng núi thấp như núi Nam Qui, Tà Pạ, Phú Cường: Phần dưới chủ yếu là cát kết thạch anh, màu xám hoặc đỏ, phân phiến dày. Phần trên là cát kết hạt vừa đến thô, thành phần đa khoáng, đôi khi thấu kính đá.
– Các loại trầm tích Creta – Hệ tầng Phú Quốc:
Các loài này được thấy ở Tri Tôn, một phần cao của núi Nam Qui. Thành phần chủ yếu của lớp là cát kết thạch anh felspat trắng, đôi khi có màu hồng, phân lớp dày vừa, rải rác aliflorua.
– Các loại trầm tích tuổi Pleistocen:
Lãnh thổ tỉnh An Giang được chia thành các phân vị địa tầng:
+ Pleistocen thượng có nguồn gốc trầm tích biển, có 2 kiểu lát cắt như sau:
Sơ lược thềm biển cổ: Tồn tại là một dải hẹp (rộng 1m-2m) giáp với các khối núi thuộc xã An Cư và Thới Sơn (huyện Tịnh Biên). Thành phần trầm tích chủ yếu là cát thô phân loại kém, ít bột và đá gốc. Mặt cắt trầm tích biển nông ven biển: lộ dọc kênh Vĩnh Tế từ An Phú đến Lạc Quới. Thành phần trầm tích chủ yếu là bột, sét và một ít sỏi sạn ở rìa dưới.
– Các loại trầm tích tuổi Holocen:
+ Holocen giữa nguồn gốc trầm tích biển:
Ở khu vực An Giang, trầm tích thuộc phân ngành này lộ ra trên bề mặt dưới dạng các dải thềm hẹp có chiều rộng từ 1-2 km đến 4-5 km xung quanh Tri Tôn, Ba Thê và các khối núi. Chúng được chia thành hai dạng mặt cắt như sau: Mặt cắt đáy biển chủ yếu là cát mịn trung bình lẫn bụi sét, ít sỏi sạn. Mặt cắt trầm tích biển nông, cửa sông, vịnh chỉ gặp ở các giếng sâu 2-3 m và thay đổi từ 2-3 m đến hơn 10 m. Trầm tích chủ yếu là bụi, cát, sét, mịn, đáy không nhiều sỏi, sạn, có nơi vỏ sò tập trung thành dải (tiêu đen), như khu vực Vọng (huyện Thảo Sơn).
+ Holocen giữa trầm tích sông-biển:
Nhóm trầm tích này thường lộ rộng trên bề mặt và bao phủ phần lớn diện tích tỉnh An Giang dưới dạng đồng bằng. Trầm tích này có quan hệ chuyển tiếp với trầm tích biển giai đoạn Holocen giữa, thành phần chủ yếu là sét, sét bột màu xám xanh đến nâu, bụi vàng…
+ Nguồn gốc trầm tích biển Holocen trung-thượng:
Ở vùng Ba Chúc, Vĩnh Gia lộ ra là vùng đồng bằng thấp (cao 1,5-2m) tạo thành dải uốn khúc kéo dài từ tây bắc xuống tây nam. Thành phần trầm tích gồm sét, cát mịn, đáy ít cát sỏi.
+ Có nguồn gốc trầm tích Holocen sông-đầm lầy trung-thượng:
Quần đảo này trải rộng dạng dải thấp, rộng từ 4 – 5 km đến hàng chục km, kéo dài từ núi Sam đến Jô Tô theo hướng gần Bắc – Nam. Ngoài ra, chúng không nhiều ở Ba Chúc, Lương Phi. Trầm tích bao gồm đất sét, bột, mùn thực vật phân hủy kém, than bùn. + Holocen thượng được phân thành 2 dạng trầm tích khác nhau:
Trầm tích đầm lầy sông: Chủ yếu là Vĩnh Gia, Ba Chúc, An Tức, Tà Đảnh, độ cao địa hình 1-2m, hình thành dải kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam hoặc hướng luồng, thành phần chủ yếu của tầng này là than bùn, thảm thực vật chết, nhiều ít sét… lấp đầy lòng sông cổ. + Trầm tích sông:
Trầm tích sông còn gọi là trầm tích phù sa mới. Chúng phân bố rộng dọc theo bờ sông Tiền, sông Hậu và một số sông rạch khác. Đai phù sa có chiều rộng không đồng nhất, thay đổi tùy theo độ uốn khúc của sông. Đặc biệt ở những nơi dòng sông chảy qua như các xã Phú Hữu, Vĩnh Trường, Vĩnh Hòa (Tân Châu), Đa Phước (An Phú), Khánh Hòa (Châu Phú)… đều tạo nên các bãi bồi. được ngăn cách bởi các thung lũng nhỏ. từ các thung lũng. Thành phần trầm tích chủ yếu gồm bụi sét và cát mịn. Tuỳ theo điều kiện môi trường mà người ta chia thành các loại trầm tích:
Phù sa đê tự nhiên: Là dải đất khá cao phát triển dọc hai bên bờ sông, kênh rạch lớn do vật chất bồi đắp lũ lụt. Do sự vận động liên tục của dòng sông, như luồng Cỏ Lau ở Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), Vĩnh Hòa (Tân Châu), đê tự nhiên có chiều rộng thay đổi từ vài chục mét đến vài km ở một số nơi. . Đê ngang nhiên trở thành khu dân cư, đô thị, đường giao thông.
Trầm tích sau một nốt sần: Thường xảy ra ngay sau đê hoặc giữa các đê tự nhiên, nơi địa hình hơi trũng và thành phần trầm tích chủ yếu là sét và phù sa. Đê sau thường để trồng lúa; dễ bị đầm lầy và đầm lầy.
Bãi phù sa (hay đồng bằng phù sa): Đây là khu vực bị ngập lụt hàng năm. Do đất đai trải rộng, thời gian lũ lụt kéo dài nên bãi bồi là một lưu vực rộng lớn để phù sa sông hạt mịn lắng đọng. Càng ra xa sông, lớp phù sa càng mỏng và mịn.
Đầm lầy và trầm tích mùn: Là những vùng trũng nhỏ nằm xa sông, đất không có điều kiện hút nước và thoát nước nên duy trì độ ẩm quanh năm. Là nơi tiếp giáp giữa bãi bồi thấp và thềm phù sa dưới chân núi. Trầm tích chủ yếu là phần còn lại của thực vật sống ở vùng đất ngập nước, khi chết đi tạo thành lớp hữu cơ dày 1-2 m chiếm hơn 20% diện tích đất. Đầm lầy sau đó được gọi là lâu đài. Ở An Giang, đầm, rạch phân bố thành vành đai kéo dài về phía đông từ vùng Bảy Núi…
Đồi sông (hay đảo sông), bãi sông mới, là khu vực phát triển theo chiều ngang nơi dòng chảy của sông bị đổi hướng và trồi lên, nguyên liệu thô thường bị giữ lại. Thành phần chủ yếu là cát thô và bụi. Đây là trầm tích đáy của sông Hậu và sông Tiền. Phù điêu cồn sông không bằng phẳng, xung quanh là đá cao, giữa cồn cát thường có những phù điêu nổi lên, dấu vết của quá trình cổ cồn cồn dính vào nhau. Nơi đây có cơ cấu thực vật rất đặc biệt, bao gồm cả cây ăn quả và nhiều màu sắc.